Thăm dò các mỏ cần thực hiện trước 5 - 10 năm trước khi dự án đầu tư xi măng
Tổng trữ lượng và tài nguyên các mỏđất sét đã được tìm kiếm, thăm dò là 218 mỏ, trữ lượng 7.602 triệu tấn. Trữ lượng các mỏđất sét đã được tìm kiếm, thăm dò chưa cân đối với trữ lượng các mỏđá vôi đã được tìm kiếm, thăm dò. Tỷ lệ trữ lượng đất sét cần tìm kiếm, thăm dò so với trữ lượng đá vôi cần đạt tỷ lệ 30%, trong khi thực tế tỷ lệ này mới chỉđạt 17%. |
Theo Bộ Xây dựng, quy hoạch thăm dò khoáng sản làm xi măng phải đi trước một bước để làm căn cứ pháp lý cho việc quản lý cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác mỏ, đáp ứng kịp thời yêu cầu khai thác nguyên liệu cho ngành xi măng trong cả nước trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và các năm sau. Thăm dò các mỏ cần thực hiện trước 5 - 10 năm trước khi dự án đầu tư xi măng triển khai thực hiện.
Các kết quả điều tra địa chất và thăm dò khoáng sản đã cho thấy Việt Nam là quốc gia giàu tài nguyên đá vôi xi măng. Tuy nhiên, Bộ Xây dựng cho rằng, việc phát triển công nghiệp thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm xi măng phải phù hợp với quy định bảo vệ các di sản thiên nhiên, di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ, các công trình văn hoá có giá trị và khu du lịch, bảo vệ môi trường sinh thái. áp dụng các quy trình công nghệ thăm dò, khai thác tiên tiến nhằm giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường và cảnh quan thiên nhiên, thực hiện việc hoàn thổ hoặc cải tạo, phục hồi môi trường và sử dụng đất hợp lý tại các mỏđã và đang khai thác. Các mỏđá vôi, đất sét chạy dọc theo các quốc lộ và dọc theo bờ biển cần có các biện pháp khai thác hợp lý như khai thác phía sau núi, chỉ khai thác trong ruột các mỏđể giữ lại cảnh quan và ngăn chặn sự xâm thực của khí hậu biển vào sâu trong đất liền. Không quy hoạch thăm dò, khai thác những mỏ nằm trong những vùng cấm, tạm cấm, hạn chế hoạt động khoáng sản đã được Chính phủ công bố. Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản làm xi măng là quy hoạch định hướng, quy hoạch mở, do vậy trong quá trình thực hiện luôn có sự bổ sung, điều chỉnh kịp thời, hoàn thiện qua từng giai đoạn.
Nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất xi măng ngày càng tăng
Theo đánh giá của Bộ Xây dựng, thời gian qua khối lượng khoáng sản cần khai thác cho công nghiệp xi măng ngày càng tăng. Trong 6 năm (2001 - 2006) khối lượng các khoáng sản khai thác đã bằng 1,69 lần so với 10 năm trước đó (1991 - 2000). Năm 2010 đểđáp ứng nhu cầu sản xuất xi măng cần khai thác và cung cấp hơn 68 triệu tấn đá vôi; 17 triệu tấn đất sét; hơn 9 triệu tấn phụ gia; năm 2020 cần khai thác và cung cấp khoảng 100 triệu tấn đá vôi; 25 triệu tấn đất sét; 13,5 triệu tấn phụ gia, ngoài ra còn phải cung cấp hàng triệu tấn phụ gia khoáng đểđiều chỉnh thành phần phối liệu sản xuất clinker và một khối lượng lớn thạch cao cần nhập khẩu.
Do nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất xi măng được dự báo là ngày càng tăng, vì vậy, quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng các mỏ khoáng sản làm xi măng phải bảo đảm các tiêu chí: Phục vụ cho các nhà máy xi măng đã được quy hoạch xây dựng ở các địa điểm cụ thể; phải đảm bảo cho nhà máy xi măng hoạt động trong 30 năm. Đối với các nhà máy dự kiến mở rộng sẽ căn cứ trữ lượng còn lại của các mỏđã được cấp phép khai thác để xác định nhu cầu trữ lượng khoáng sản cần tiếp tục quy hoạch thăm dò, khai thác… Căn cứ vị trí phân bố các mỏ khoáng sản gần khu vực sẽđầu tư nhà máy xi măng (trong vùng bán kính < 40km) và thuận tiện giao thông.
Đối với các nhà máy xi măng có trạm nghiền để tách riêng hoàn toàn khỏi nhà máy hoặc có một phần clinker đưa đến trạm nghiền ở khu vực khác (như các nhà máy xi măng ở khu vực tỉnh Quảng Ninh, Nhà máy Xi măng Công Thanh - Thanh Hoá) lượng phụ gia cần cung cấp sẽ tính theo sản lượng xi măng được sản xuất tại khu vực tương ứng. ở những khu vực tập trung các nhà máy xi măng có nhu cầu sử dụng chung một mỏ phụ gia có trữ lượng lớn sẽ quy hoạch thăm dò toàn mỏ và quy hoạch khai thác đáp ứng cho nhu cầu toàn bộ các nhà máy trong khu vực.
Tổng hợp quy hoạch thăm dò trữ lượng phụ gia cho công nghiệp xi măng trong cả nước từ nay đến năm 2020 là 420,7 triệu tấn (làm tròn 421 triệu tấn). ở những khu vực các nhà máy xi măng có nhu cầu sử dụng chung một mỏ phụ gia có trữ lượng lớn sẽ quy hoạch khai thác toàn mỏđểđáp ứng cho nhu cầu toàn bộ các nhà máy. Riêng các nhà máy xi măng và các trạm nghiền ở khu vực các tỉnh vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long sẽđược cung cấp từ các mỏ phụ gia ở các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đối với các nhà máy xi măng có trạm nghiền để tách riêng hoàn toàn khỏi nhà máy hoặc có một phần clinker đưa đến trạm nghiền ở khu vực khác lượng phụ gia cần cung cấp sẽ tính theo sản lượng xi măng được sản xuất tại khu vực tương ứng.v.v
Tổng hợp quy hoạch khai thác trữ lượng phụ gia cho công nghiệp xi măng như sau:
+ Giai đoạn từ nay đến năm 2010: 339,6 triệu tấn
+ Giai đoạn 2011 - 2020: 129,6 triệu tấn
Tổng cộng: 469,2 triệu tấn (làm tròn 470 triệu tấn)
+ Tổng số mỏđá vôi đã được phát hiện là 351 mỏ. Trong đó, số mỏđã được khảo sát, tìm kiếm, thăm dò là 274 mỏ; số mỏ chưa khảo sát là 77 mỏ.
+ Tổng tài nguyên các mỏđã khảo sát (274 mỏ) là 44.739 triệu tấn. Trong số mỏđã khảo sát, số mỏ nằm trong khu vực cấm, tạm cấm, hạn chế khai thác là 42 mỏ với tài nguyên 1.669 triệu tấn. Như vậy số mỏ có thể đưa vào thăm dò, khai thác cung cấp nguyên liệu cho sản xuất xi măng là 232 mỏ với tổng tài nguyên là 43.070 triệu tấn.
|
(Theo baoxaydung.vn)